Chân Phước Isidore de Loor, C.P.
Chân Phước
Isidore de Loor, C.P.
(1881-1916)
Tất cả các tu sĩ
thuộc các dòng tu trong Giáo hội luôn theo đuổi hai mục đích rõ rệt: thứ nhất
thánh hoá bản thân, và thứ hai cứu các linh hồn anh chị em đồng loại bằng mọi
phương pháp theo sáng kiến riêng của mỗi hội dòng. Đối với các tu sĩ Dòng
Thương Khó Chúa Giêsu, ngoài hai mục đích đó còn thêm một mục đích thứ ba, đó
là rao giảng về sự Thương Khó Chúa Kitô.
Để đạt được những
mục đích cao cả này, các tu sĩ không cần phải thực hiện những việc lạ lùng hay
phải hãm mình nhiệm nhặt. Đường lối dẫn đến sự thánh thiện của họ là vâng
theo Thánh Ý Chúa bằng cách tuân theo các luật lệ và vâng lời Bề
trên. Do đó, đời sống những tu sĩ tận hiến này là một cuộc đời khiêm nhu ẩn
dật.
Trong suốt cuộc đời, thầy Isidore đã sống
theo luật sống đó trong sự vâng phục các Bề trên một cách vui vẻ, không phàn
nàn. Lúc qua đời vào năm 1916, thầy không để lại những bút tích tuyệt tác, và
người ta cũng không thấy thầy làm một việc gì lạ lùng. Dù vậy, chỉ 13 năm sau
khi thầy qua đời, hương thơm nhân đức của thầy đã toả lan, đến nỗi người ta đã
nghĩ đến việc xin phong thánh cho thầy. Đến năm 1952, hơn ba mươi ngàn người
đã đến tham dự nghi thức cải mộ và tỏ lòng tôn kính thầy.
Điều gì nơi con
người tu sĩ khiêm hạ này đã có sức thu hút quần chúng như thế? Sự thánh thiện của
thầy Isidore được đặt trên nguyên tắc là hết mọi người, tu sĩ cũng như giáo
dân, được mời gọi để thi hành Thánh Ý Thiên Chúa một cách khiêm nhượng và hăng
hái. Thầy Isidore tìm thấy sức mạnh để nhận biết và thi hành Thánh Ý Thiên Chúa
trong sự cầu nguyện.
Isidore de Loor là
con cả trong một gia đình nông dân tại Bỉ. Cha mẹ ngài lập gia đình muộn,
và với ba mặt con, ông bà đã kiến tạo được một gia đình thật gắn bó và yêu
thương. Công việc đồng áng thật cực nhọc đến nỗi ông bà không được tham dự
thánh lễ hằng ngày. Isidore thay mặt cho cả gia đình trung thành tham dự
thánh lễ hằng ngày và cùng với cả gia đình tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật.
Isidore đã lớn lên trong một gia đình biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương
tha nhân. Cuối mỗi ngày làm việc, cả gia đình cùng tụ tập quỳ gối lần hạt
Mân Côi. Bỏ đọc kinh hằng ngày là điều không thể được trong gia đình của Isidore.
Isidore đã phụ
giúp cha làm công việc đồng áng với khả năng của cậu. Ngoài ra, cậu còn
làm những công việc vặt khác giúp đỡ mẹ hoặc chăm sóc cho các em. Bởi vì
những nông phu trẻ miền quê ở Bỉ vào cuối thế kỷ XIX không cần thụ huấn nhiều ở
trường, nên cậu cũng chỉ được đến trường có sáu năm. Năm lên mười hai tuổi,
cậu phải nghỉ học để giúp việc đồng áng.
Isidore càng lớn,
lòng ham ước tận hiến mình cho Thánh Ý Thiên Chúa cũng lớn theo. Cầu nguyện
và làm việc là luật sống của cậu lúc ấy.
Vào các Chúa nhật,
Isidore đi dự lễ sớm, và sau khi về nhà điểm tâm cách vội vã, cậu liền trở lại
nhà xứ để dạy giáo lý cho các trẻ em trong xứ. Các buổi trưa Chúa Nhật cậu
thường đi bộ hàng giờ đến những nhà thờ lân cận để giúp dạy giáo lý. Những
ai biết Isidore lúc ấy đều nói tốt về cậu và tỏ lòng ngưỡng mộ. Mặc dù
luôn tỏ ra là người vui tươi, Isidore không thích những cuộc nói chuyện bất
nhã, thô tục và cậu không bao giờ nhượng bộ trong vấn đề này. "Người tử tế không được nói những điều đó",
cậu nhắc cho họ: "Hãy nghĩ đến
Thiên Chúa, Đấng hằng nghe và thấy bạn mọi nơi mọi lúc".
Trong những khi
ít công việc ở ngoài đồng, thay vì Isidore nghỉ ngơi hay làm những việc hợp với
sở thích, cậu trước hết lo những việc sửa sang nhà cửa, rồi sau đó tình nguyện
đi giúp những người láng giềng.
Mặc dù luôn ước
mơ ơn gọi hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa, nhưng Isidore biết mẹ già cần mình
ở nhà. Đến năm 26 tuổi, cậu tham gia việc truyền giáo do một Cha Dòng Chúa
Cứu Thế đảm trách. Isidore đã bày tỏ với vị linh mục này ước mơ của mình.
Vị linh mục đã khôn ngoan khuyên chàng theo ơn gọi của mình bằng cách gia nhập
làm tu sĩ Dòng Thương Khó.
Lúc đầu, song
thân của chàng cũng lưỡng lự khi nghĩ đến sắp phải mất một người
con. Nhưng với niềm ước vọng muốn tuân theo Thánh Ý Thiên Chúa, các ngài
đã bằng lòng cho con đi thử nghiệm ơn gọi.
Cha ngài đã
không thể cầm lòng được lúc phải chia tay với người con yêu dấu. Trên đường
ra nhà ga, bà thân mẫu, đôi mắt đẫm lệ, đã nói với con: "Isidore, nếu ở tu viện không hợp cho con thì về nhà liền nhé". Isidore
liền thưa với mẹ: "Mẹ à, đứa con này
sẽ không bao giờ trở về nữa đâu".
Mặc dù đã dốc lòng
không trở về nhà, tìm được tu viện cả là một vấn đề khó khăn đối với Isidore. Nước
Bỉ là một quốc gia với hai ngôn ngữ, trong khi Thầy Isidore chỉ biết nói tiếng
Đức (flemish) mà đường đi đến tu viện lại thuộc miền nói tiếng Pháp. Khi đến
làng, chàng không thể tìm thấy tu viện. Chàng cố gắng ra dấu và vẽ dấu hiệu
của Dòng Thương khó để tìm ra hướng đi. Sau cùng chàng mới gặp một người
biết tiếng Đức chỉ đường cho.
Trong những ngày
đầu ở nhà dòng, chàng cảm thấy thật lép vế trước sự hiện diện của các linh mục tu
sĩ có học thức. Nhưng không bao lâu, lòng tử tế của mọi người đã san bằng
mọi ngăn cách, và chàng đã có thể viết thư về nhà khen ngợi sự bình dân gặp thấy
trong nhà dòng. "Ở đây tất cả mọi người đều như nhau, từ Cha Bề trên
cho đến người thấp hèn nhất: ăn chung, ngủ chung, cùng nghỉ ngơi, cùng giải
trí". Lúc này, Isidore đã được đổi tên mới là Thầy Isidore Giuse.
Từ ngày đầu tiên
ở tu viện, thầy Isidore đã dốc quyết cố gắng hết sức để chu toàn lề luật cách
hoàn hảo và vâng phục tất cả mọi huấn lệnh của các Bề trên, không thắc mắc,
không than phiền. Cha Giám tập nhận thấy rõ thầy Isidore có những đức tính
rất đặc biệt và có một cuộc sống thật nhiệm nhặt. Thầy Isidore không bao giờ
phàn nàn.
Biết rằng luật cấm
các thầy không được hy sinh hãm mình ngoại thường, thầy Isidore đã thực hiện những
việc ăn năn sám hối nhỏ mọn hầu như không ai biết đến. Trong nhiệm vụ nấu
ăn cho anh em Dòng, thay vì làm những món đơn giản, dễ dàng hợp với thực đơn,
thầy luôn cố gắng để dọn những món ăn hợp với sở thích của mỗi người. Thêm vào
đó, thầy đợi cho tất cả mọi người ăn xong rồi mới dùng những thức ăn còn lại. Một
lần nọ, có thầy để ý thấy khi dùng bánh mì, thầy thầy Isidore lướt "dao quẹt
bơ" trên miếng bánh mì, nhưng thật ra bơ không dính trên bánh mì một tí
nào. Thầy làm vậy để che mắt mọi người. Đối với thầy, những việc hãm
mình nho nhỏ này như là những tặng vật dâng lên Thiên Chúa.
Một ngày kia khi
thầy Isidore đang cắt cỏ, khí trời đột nhiên trở nên nóng bức khác thường. Một
thầy được sai đi lấy nước lạnh đem ra cho thầy uống. Thầy Isidore tử tế
cám ơn thầy bạn, nhưng về sau quan sát thấy thầy lén bỏ lại chai nước đầy vào
nhà bếp. Mặc dù thầy thích làm các công việc ngoài trời là những việc ngay
từ bé thầy vẫn yêu thích như chăm sóc vườn tược và làm việc đồng áng, nhưng khi
được chỉ định làm bếp hay ở nhà giặt, thầy không hề phàn nàn hay tỏ ra không
thích.
Nếu có thể giúp
đỡ ai điều gì thì thầy Isidore liền giúp ngay. Nhưng trái lại, khi thầy cần thì
lại không xin ai giúp cả. Lần kia có hai người tính tình không được chăm
chỉ và hăng hái cho lắm được chỉ định giúp thầy làm bếp. Có khi sau cả buổi mà
hai người cũng không gọt đủ số khoai để dùng; lúc khác thì không chịu chu toàn
những việc đã được trao phó ở trong bếp. Thay vì phàn nàn, thầy Isidore đã hy
sinh làm thay họ, cho đến khi một thầy khác thấy điều đó không công bằng đối với
thầy Isidore nên đã trình bày cho Bề trên biết.
Thầy Isidore coi
những điều mong ước của Bề trên như những huấn lệnh chính Thiên Chúa trực tiếp
ban bố. Một lần trong thời kỳ Đệ I Thế Chiến, các thầy được khuyên nên dời
khỏi tu viện để tránh những nguy hiểm có thể xảy đến. Các Bề trên đã cho hầu hết
các thầy đến nơi an toàn ở Hoà Lan, chỉ để lại một vài người coi tu viện. Khi
được hỏi là thầy muốn ở lại hay muốn đi, thầy Isidore đã can đảm sẵn sàng ở lại
dù biết rằng đó là một công việc hết sức nguy hiểm. Một nghĩa cử tùng phục
anh hùng khác đã diễn ra trên giường chết. Lúc đó, thầy đã thú nhận với một
tu sĩ khác là mình đã sẵn sàng để từ giã cõi đời. Dù vậy thầy nói:
"Vì các Bề trên không muốn, nên tôi vẫn sống".
Vào mùa hè năm
1911, thầy Isidore đã mắc phải chứng bệnh đau mắt kịch liệt. Tuy các bác sĩ nhận
thấy sự đau đớn có thể thật dữ dội, nhưng thầy Isidore vẫn không hề nhắc đến
mãi cho đến khi chứng bệnh trở nên trầm trọng đến nỗi thầy không thể chịu đựng
được. Sau khi khám nghiệm, người ta khám phá ra là thầy bị ung thư ở con mắt
bên phải và họ miễn cưỡng phải lấy con mắt ra. Sau đó thầy lại biết thêm
là mình cũng bị ung thư ruột và chỉ có thể sống thêm vài năm nữa. Thầy
bình tĩnh vui nhận. Thầy viết thư cho song thân: "Phó mặc cho Thánh Ý
Thiên Chúa, chúng ta sẽ tiến bước vững vàng. Xin Chúa ban cho con được vui
chịu mà không than phiền".
Đến năm 1914, thầy
được trao phó công việc coi cửa tu viện ở Kortrijk. Đây là công việc gây
nên nhiều phân tâm nhất và có thể nói là công việc không một tu sĩ nào thích
làm. Khi chuông cổng reo lên, người giữ cửa phải ngừng các công việc mình
đang làm, cả khi đang trong giờ kinh nguyện, để ra đón khách. Thầy Isidore vui
vẻ chu toàn công việc này. Vừa khi nghe được tiếng chuông, thầy liền đi
ngay và hân hoan tiếp đón tất cả những ai đến.
Đến cuối mùa hè
1916, sau những năm tháng yếu bệnh, thầy đã kiệt sức. Chứng bệnh sưng màng
phổi biến chứng khiến thầy phải nằm dưỡng bệnh, và bác sĩ cho biết chứng ung
thư đang lan nhanh. Càng gần đến những ngày cuối đời, những trận tấn công
càng trở nên đau đớn dữ dội. Sau cùng, thầy không thể nằm trên giường được
nữa; khi cơn đau quá dữ dằn, thầy thường ngồi trên một chiếc ghế và tựa đầu vào
chỗ để tay. Tu sĩ y tá được chỉ định chăm sóc thầy sau này quả quyết rằng
không hề nghe một lời nào phàn nàn nơi thầy Isidore. "Khi tôi hỏi thầy
về tình trạng sức khoẻ của thầy thì thầy chỉ đáp rằng thầy hối tiếc vì không thể
cám ơn Chúa sau khi rước Mình Thánh một cách sốt sắng hơn và thầy xin tôi
giúp". Thầy Isidore cảm thấy rất rõ sự đau đớn đã khiến thầy khá phân
tâm trong các giờ kinh nguyện, làm cho thầy không thể tập trung được. Mặc
dù trong lúc lâm chung, thầy được sự an ủi của các tu sĩ cùng Dòng, nhưng thầy
đã không được sự an ủi là gặp được cha mẹ yêu dấu một lần cuối. Dù vậy, thầy
không hề phàn nàn về điều này.
Khoảng một giờ
sáng ngày 6 tháng 10 năm 1916, thầy Isidore đột nhiên kêu lên: "Thưa Cha Bề
trên, xin Cha cho gọi các anh em trong nhà, vì con sắp chết rồi". Có
một cha lúc đó đang ở trong phòng nói rằng ngài cảm thấy chưa đến giờ, nhưng vì
sự nài nỉ của thầy Isidore, toàn thể cộng đồng đã được gọi đến. Thầy Isidore
khiêm nhượng xin mọi người tha thứ những lầm lỗi thầy có thể đã lỗi phạm và hứa
sẽ cầu nguyện cho mỗi người khi mình về thiên đàng. Đang khi tựa đầu vào
cánh tay Cha Bề trên, thầy đã êm ái trút hơi thở cuối cùng để ra đi lãnh phần
thưởng Chúa ban. Hai ngày sau, nhà dòng đã âm thầm an táng Thầy.
Con số những người
đến thăm mộ và xin thầy cầu nguyện cho ngày càng gia tăng. Trong một thời
gian ngắn, nhiều người cầu xin những ơn hồn xác và đã được nhận lời. Chẳng
bao lâu, danh tiếng thầy vượt ra ngoài nước Bỉ, người ta bắt đầu tuôn đến từ
các nước tại Âu châu. Việc điều tra của giáo phận đã bắt đầu năm
1950. Hai năm sau, án phong thánh đã được chuyển về Rôma. Đến ngày 30
tháng 9 năm 1984, thầy Isidore Giuse được Đức Gioan Phaolô II nâng lên bậc Chân
phước.
Nguồn:
Constanine Van
Hemelen C.P, Blessed Isidore de Loor,
Passionist, 1881 – 1916, translated by Francis McGrade, 1979.
Comments
Post a Comment