HẠNH PHÚC- NỖI KHẮC KHOẢI KHÔNG CỦA RIÊNG AI


HẠNH PHÚC- NỖI KHẮC KHOẢI KHÔNG CỦA RIÊNG AI
Con người ngày nay đang sống trong một thế giới đầy âu lo. Người mang nỗi lo về cuộc sống, gia đình, tiền bạc, người ưu tư về tình yêu, học hành, sự nghiệp, tương lai. Từng ngày sống, bao nỗi âu lo đè nặng lên đôi vai của mỗi người, khiến bao người mỏi mệt và tự hỏi phải chăng đời người là những tháng ngày âu lo. Tuy nhiên, có lẽ nỗi âu lo nổi bật hơn cả chính là niềm khao khát hạnh phúc. Con người luôn ấp ủ niềm khao khát hạnh phúc từ khi có mặt trên cõi đời và hằng ngày cố gắng tìm mọi cách để thõa mãn khát vọng đó. Vậy hạnh phúc thực chất là gì sao con người luôn phải khắc khoải kiếm tìm? Liệu rằng hạnh phúc có phải cùng đích của đời người không?
Biết rằng, hạnh phúc luôn là đề tài rộng lớn được con người thuộc mọi thời quan tâm một cách đặc biệt. Trong đó, mỗi người có một cách nhìn, một lối khai thác về chủ đề hạnh phúc khác nhau. Do vậy, với bài viết này, trong giới hạn trên dưới bốn ngàn từ, tôi tập trung chủ yếu vào quan điểm bàn về hạnh phúc của một vài triết gia, trường phái thời cổ đại phương Tây là Aristotle, phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ. Từ đó, tôi muốn mở rộng vấn đề tới cách nhìn của con người ngày nay về hạnh phúc.
Rõ ràng, dẫu đời người đầy biến chuyển, nhiều khát vọng chưa được thỏa mãn, nhiều bí ẩn vẫn chưa được giải đáp, nhưng con người ở bất kỳ thời đại nào cũng luôn ấp ủ một khát vọng giống nhau là theo đuổi cuộc sống hạnh phúc. Trong Tổng Luận Thần Học về Hạnh Phúc Con Người, Thánh Tôma Aquinô đã viết rằng: “Mục đích tối hậu của con người được coi là hạnh phúc”.[1] Thực vậy, suy cho cùng tất cả ý nghĩa, giá trị, niềm vui của cuộc sống dường như đều được gói gém trong khái niệm hạnh phúc. Nhưng trong những bước tìm kiếm hạnh phúc của đời mình, con người thường giới hạn hạnh phúc thành những mục tiêu rất hạn hẹp và cụ thể, ví dụ quy hạnh phúc thành khoái lạc, giàu sang, sự thỏa mãn, danh dự, hay quyền lực. Rõ ràng, ai cũng có thể cảm nhận rằng, người sống nghèo khổ, túng thiếu mong có cái ăn, cái mặc hằng ngày làm hạnh phúc; người giàu có mong yên ổn, mong sống lâu để hưởng thụ làm hạnh phúc; người đau yếu mong sức khỏe làm hạnh phúc; người bị cầm tù mong tự do làm hạnh phúc. Thật sự chuyện ai cũng muốn hạnh phúc là một điều hiển nhiên, dù mỗi người hiểu hạnh phúc theo mỗi cách khác nhau và dùng phương thế khác nhau để đạt đến hạnh phúc. Thế nhưng làm thế nào để hiểu hạnh phúc một cách tốt nhất? Hay làm sao để đạt tới hạnh phúc? Như trình bày ở trên, hạnh phúc là một đề tài rộng lớn và được hiểu nhiều cách khác nhau. Cho nên tôi không dám trình bày khái niệm này theo cái nhìn chủ quan của mình nhưng tôi sẽ trình bày dưới góc nhìn triết học đạo đức của Aristotle, phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ.
                          I.            Hạnh phúc dưới góc nhìn của Aristotle
Trước tiên, trong Nicomachean Ethics của Aristotle, ông khẳng định chỉ có một cứu cánh tột cùng của con người. “Eudaimonia là điều thiện tột cùng đáp ứng cho sự thuần nhất của những cứu cánh nơi con người và nó chính là nguyên nhân cứu cánh của con người”.[2] Vậy, Eudaimonia nghĩa là gì? Có nhiều văn bản dịch là “hạnh phúc”, tuy nhiên theo Aristotle, Eudaimonia – hạnh phúc ở đây phải được hiểu là “một loại hoạt động, không phải một loại khoái lạc, mặc dầu hiển nhiên có khoái lạc đi kèm. Nó là một hoạt động đặc sắc nơi con người, hàm ngụ một quan năng tối cao mà động vật và thực vật không có”.[3] Như vậy, hạnh phúc theo Aristotle là một hoạt động, chứ không phải là một tình cảm. Nghĩa rằng, hạnh phúc không hệ tại cảm thấy tốt, nhưng hệ tại hành động tốt. Vậy làm sao để đạt đến Eudaimonia? Aristotle cho rằng con người phải xác định được chức năng riêng của mình và chức năng đó là sinh hoạt phù hợp với lí trí của con người. Điều này đem lại luật phổ quát về đức hạnh luân lí; chúng là những thiên hướng trong đó các tình cảm và các cảm xúc được lí trí hướng dẫn để việc hành xử phù hợp với hoàn cảnh.[4] Như vậy thật sai lầm khi định nghĩa hạnh phúc là lạc thú, vì con người cũng có thể đạt được lạc thú từ những hoạt động nghịch với lí trí, và hành động nghịch với lí trí không phải là hành động tốt, vì hành động tốt là thể hiện chức năng phù hợp với lí trí. Vậy, có thể nói rằng theo Aristotle, mục đích cuối cùng của con người là sống hạnh phúc và sống hạnh phúc là hoạt động tốt.
Bên cạnh đó, để đạt đến hạnh phúc, hành động của con người phải nhắm tới mục đích riêng của nó. Rõ ràng, ngày nay đâu đâu ai cũng tìm kiếm lạc thú, của cải và danh vọng, hay quyền lực. Mặc dù chúng có giá trị, nhưng không một mục đích nào trong số này có thể thay thế cho điều tốt lành chính yếu mà con người phải nhắm tới. Aristotle chắc rằng mọi người đều nhất trí hạnh phúc là cuối cùng của hành vi con người. Quan điểm này cũng đã được Thánh Tôma Aquinô nhấn mạnh trong Tổng Luận Thần Học. Ngài khẳng định mục đích tối hậu của con người được coi là hạnh phúc. Thực vậy, con người chọn lạc thú, của cải và danh vọng vì nghĩ rằng nhờ những thứ đó làm công cụ sẽ giúp đạt được hạnh phúc. Nhưng suy cho cùng, đó cũng chỉ là hạnh phúc nay còn mai mất, vì ai chắc chắn được mình sẽ sở đắc chúng cả đời, hay dù có sở đắc được, liệu rằng đó có phải là hạnh phúc đích thực hay chỉ là một sự thỏa mãn bề ngoài, tạm thời. Rõ ràng, đó là một sự lầm tưởng khi xem những biểu tượng đó là hạnh phúc đích thực, là hạnh phúc vĩnh cửu, là cùng đích của đời người.
Tiếp đến, theo Aristotle dường như mọi người đều đồng ý rằng cái Thiện tối cao là hạnh phúc tuyệt đối của con người và đời sống thực tiễn hoạt động của con người là hướng về cái đích thiện hảo là hạnh phúc, để đạt được cái đích của sự thiện hảo là hạnh phúc con người phải hoàn thành chức năng hoạt động của mình như một con người.[5]
Vậy chức năng của con người là gì? Phải chăng chức năng của con người giống như chức năng của một người thợ mộc hay một người đóng giày? Có phải chức năng của con người là những hoạt động thể lý hay đời sống cảm giác? Con người chẳc hẳn phải có một chức năng hoạt động đặc trưng, nhưng đó là gì? Ở đây Aristotle phân tích bản chất con người để khám phá ra hoạt động độc đáo của con người. Trước hết, mục đích của con người không chỉ là sự sống đơn thuần, vì cây cỏ cũng có sự sống này. Kế đến, con người cũng có đời sống cảm giác, nhưng sự sống này trâu bò và mọi loài động vật đều có. Vậy điều cần thiết phải biết điều gì là riêng cho con người. Nếu chức năng của con người là một hoạt động của linh hồn tuân theo hay bao gồm một nguyên lý lý tính vậy cái tốt của con người chính là hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh. Phần nguyên lý lý tính có chức năng hoạt động là kiểm soát và hướng dẫn các phần phi lý tính. Người tốt không phải là người làm một hành động tốt lúc này hày lúc khác, chỗ này hay chỗ kia, mà là người có toàn thể đời sống tốt. Cho nên, không phải một ngày hay một thời gian ngắn làm cho một người được hạnh phúc mãn nguyện.[6]
Như vậy, Aristotle coi đạo đức học là cuộc tìm kiếm hạnh phúc và hạnh phúc liên hệ mật thiết với cái đích hay mục đích của một người. Để đạt được hạnh phúc, con người phải hoàn thành mục đích của mình bằng cách hoàn thành các chức năng hoạt động của mình như một con người (hành động theo lý trí). Các chức năng hoạt động của mình như một con người là luôn nhắm tới một sự thiện nào đó. Aristole lý luận rằng sự Thiện cao nhất của con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động của mỗi người, chính là hạnh phúc. Có thể con người không ý thức rằng mình đang tìm kiếm hạnh phúc, nhưng trong thực tế mọi người đều cố gắng theo đuổi mục đích này, vì nó được xây dựng trong chính cấu trúc bản tính của mỗi con người. Vì hạnh phúc là mục đích cuối cùng của mỗi người, và vì đạo đức học quan tâm tới việc đạt mục đích cuối cùng của con người.
Kế đến, tôi tiếp tục xét hạnh phúc dưới góc nhìn của một trường phái sau Aristotle và có cùng quan điểm với Aristotle về khát vọng con người theo đuổi -hạnh phúc- đó chính là phái Khoái Lạc.
                      II.            Hạnh phúc dưới góc nhìn của phái Khoái Lạc
Phái Khoái Lạc chủ trương cái Thiện tối cao con người theo đuổi là hạnh phúc.[7] Hạnh phúc dưới góc nhìn của phái Khoái Lạc được cho là sự sở hữu những thú vui và xa lánh đau khổ. Thú vui ở đây có hai loại: Thú vui động là các hoạt động như đói được ăn, khát được uống. Thú vui tĩnh là trạng thái trong đó không còn cảm thấy đau khổ. Tuy nhiên, thú vui động luôn có một giới hạn, nếu vượt qua giới hạn đó rất dễ dàng dẫn đến đau khổ. Ví dụ như đói được ăn, nhưng nếu cứ ăn cho thỏa thích, không có điểm dừng, chắc chắn việc dẫn đến những hậu quả đáng tiếc là điều đương nhiên. Vì thế phái Khoái Lạc cho rằng thú vui tĩnh đáng quí hơn thú vui động. Hay nói cách khác, đạt đến hạnh phúc là lúc không còn cảm giác đau khổ trong thân xác hay xáo trộn trong tâm hồn.
Nhưng làm sao để đạt đến hạnh phúc? Phái Khoái Lạc phân biệt ba khát vọng: khát vọng vừa tự nhiên, vừa cần thiết; khát vọng tự nhiên mà không cần thiết và cuối cùng là khát vọng vừa không tự nhiên, vừa không cần thiết.[8]
Đầu tiên, khát vọng vừa tự nhiên vừa cần thiết là những nhu cầu cần được thỏa mãn của con người như ăn khi đói, uống khi khát. Nếu những nhu cầu đó không được thỏa mãn con người sẽ đau khổ. Nhưng những nhu cầu này khá tầm thường và đơn giản nên rất dễ thỏa mãn. Chỉ cần một chén cơm khi đói, một ly nước khi khát, một tấm chiếu để nghỉ ngơi khi mệt, những thứ đó chẳng phải đủ để hài lòng rồi hay sao? Tiếp đến, khát vọng tự nhiên không cần thiết phức tạp hơn vì nó đòi thay đổi những thú vui. Thay vì một chén cơm khi đói, đủ để ấm dạ, lại muốn một tô bún bò hai chả, một giò heo. Thay vì một ly nước lã khi khát, đủ làm dịu cơn khát, lại muốn một li sinh tố ít đá, nhiều sữa. Cuối cùng loại khát vọng thứ ba vừa không tự nhiên, vừa không cần thiết được cho là những nhu cầu hoàn toàn giả tạo, xuất phát từ sự cạnh tranh xã hội, sự tham lam hay khoe khoang. Ví dụ, hành động tắm bằng bia, bằng tiền. Những nhu cầu này thường không chừng mực, không có giới hạn. Dưới sự chi phối của khát vọng này làm cho con người đi từ đam mê này qua đam mê khác, từ xáo động này qua xáo động khác.
Như vậy đứng trước ba loại nhu cầu vừa kể, điều hiển nhiên con người phải được thỏa mãn những nhu cầu vừa tự nhiên vừa cần thiết vì đó là điều kiện cần để tồn tại và có một đời sống quân bình. Với những nhu cầu tự nhiên, không cần thiết, nếu trong điều kiện thuận lợi và có những phương tiện, đôi khi con người cũng được cho phép thỏa mãn nó, miễn đừng tạo ra cho bản thân những thói quen, để rồi những thói quen đó trói buộc chính mình trong những đam mê, nhu cầu không cần thiết. Còn với những nhu cầu vừa không tự nhiên, vừa không cần thiết cần phái có một thái độ duy nhất cần phải có là nhất quyết từ chối và quyết tâm dập tắt chúng. Ai biết xử trí đúng như thế sẽ đạt tới sự khôn ngoan và hạnh phúc.
Tuy nhiên phái Khoái Lạc cũng gặp không ít sự chỉ trích và phê bình khi quá đề cao thú vui, khoái lạc. Các nhà phê bình cho rằng học thuyết của phái Khoái Lạc nhằm biến con người thành một con vật. Nhưng liệu lời chỉ trích này có thật sự xác đáng? Chính vì thế phái Khoái Lạc đã chống lại mạnh mẽ sự hiểu nhầm này, Epicure đã viết:
“Khi chúng tôi nói thú vui là cứu cánh, chúng tôi không muốn nói tới thú vui của những kẻ sa đọa và hưởng thụ. Rượu chè, đàn điếm, tiệc tùng không làm cho đời sống thú vị, chính cái tư tưởng thanh đạm biết khám phá những nguyên nhân của mọi khát vọng và biết xua đuổi những ý tưởng làm xáo động tâm hồn”.[9]
Như vậy, phái Khoái Lạc đã cho thấy hạnh phúc không đòi hỏi nhiều điều kiện bên ngoài. Hạnh phúc độc lập với địa vị con người có được trong xã hội, với khối tài sản con người tích trữ hay với dư luận mà người khác vẽ về mình. Hạnh phúc phần lớn tùy thuộc ở việc biết giới hạn những khát vọng của mình, biết giảm bớt những nhu cầu của mình và biết loại bỏ những nhu cầu không cần thiết. Hay cũng có thể hiểu hạnh phúc là biết hưởng thụ thú vui cuộc sống sao cho tốt nhất, chứ không phải buông thả theo dục vọng thấp hèn như nhiều nghĩ.
Như vậy, giống như Aristotle, phái Khoái Lạc cũng cho rằng con người luôn khao khát hạnh phúc, nhưng hạnh phúc của phái Khoái Lạc là sự sở hữu những thú vui và xa lánh đau khổ. Tuy nhiên, phái Khoái Lạc cũng nhấn mạnh, để đạt đến hạnh phúc những thú vui phải có sự quân bình, không được trói buộc mình trong những đam mê, hay những nhu cầu không cần thiết. Đồng thời phải có một thái độ nhất quyết từ chối với những thú vui không tự nhiên và không cần thiết. Cuối cùng, tôi bàn tới hạnh phúc qua góc nhìn của phái Khắc Kỷ để xem hạnh phúc có đơn giản là sở đắc lạc thú như phái Khoái Lạc.
                   III.            Hạnh phúc dưới góc nhìn phái Khắc Kỷ
Cũng giống như Aristotle và phái Khoái Lạc, rằng con người tự nhiên hướng tới hạnh phúc – mục đích của đời sống. Nhưng hạnh phúc với phải Khắc Kỷ không ở tại sự vui thú như một số người lầm tưởng bởi hạnh phúc là một trạng thái bền bỉ, vững vàng trong khi thú vui lại mau qua chóng hết, cho nên không thể đồng hóa hạnh phúc với thú vui được. Nếu phái Khoái Lạc, xem hạnh phúc ở lạc thú, phái Khắc Kỷ tìm kiếm hạnh phúc qua minh triết, tức là sự khôn ngoan để kiểm soát những gì nằm trong khả năng của con người và để chấp nhận những gì tất yếu xẩy đến với con người như một sự chịu đựng. Với phái Khắc Kỷ, hạnh phúc là “l’ataraxi”, nghĩa là không bị xáo trộn, sự bình an trong tâm hồn, sự hòa hợp giữa mình với mình, cũng giữa mình với vạn vật. Đây là trạng thái cần phải cố gắng để đạt tới và nắm giữ qua mọi biến cố và mọi đổi thay của cuộc đời.
Vậy tại sao tâm hồn lại thường bị xáo trộn? Phái Khắc Kỷ đưa hai nguyên nhân gây nên sự xáo trộn trong tâm hồn:[10]
Thứ nhất, tâm hồn thường bị xáo trộn bởi con người cảm thấy mình thiếu danh dự và phẩm giá. Cảm giác này làm con người đau khổ và phiền muộn. Vì vậy cần phải tránh cảm giác này bằng cách khi làm bất cứ việc gì cũng phải xem xét việc làm đó có xứng đáng, có đáng trọng hay không. Không bao giờ làm việc gì khiến mình xấu hổ về mình, làm cho mình mất phẩm giá về mình, mình không tự trọng được mình nữa. Tuy nhiều lúc khó khăn nhưng điều luôn phải chọn là một tâm hồn thanh bình thì mới có được hạnh phúc. Phái Khắc Kỷ chủ trương rằng:
 “Tất cả những vấn đề khó khăn trong cuộc sống, ta nên chấp nhận, không trốn tránh, vì chúng có ích cho việc tôi luyện tinh thần, cứ coi như chúng là những phương tiện Thượng Đế dùng để tôi luyện ta, để sau khi trải qua thử thách, ta thấy mình trưởng thành và hoàn thiện hơn.”[11]
Thứ hai, tâm hồn con người thường bị xáo trộn vì có những khát vọng đối nghịch nhau. Nghĩa là điều con người mong ước thì không thể đạt được, điều không muốn lại xảy đến. Vậy muốn tránh sự xáo trộn này phái Khắc Kỷ đưa ra hai điều phải làm: Trước hêt, con người phải biết cái gì tùy thuộc ở mình, cái gì không. Cái tùy thuộc của mình là phán đoán, khát vọng, còn cái không tùy thuộc của mình là tiền tài, sự sống, danh vọng… Như vậy, sau khi phân biệt rõ ràng hai loại như vậy, con người sẽ tuy theo đó mà dung hòa những khát vọng của chính bản thân mình. Nếu đem lòng khao khát những tùy thuộc không ở mình sẽ dẫn đến chán ghét, thật vọng, buồn phiền nơi tâm tâm hồn mình. Vậy tốt nhất nên dững dưng với những gì không tùy thuộc nơi mình.
Nói cho cùng sự thanh bình tùy thuộc ở sự nhận định của chính mình, ở óc phán đoán của mỗi người. Biết phán đoán cho đúng, biết làm chủ chính mình, đó mới là bí quyết sống hạnh phúc mà phái Khắc Kỷ muốn hướng tới.
Như vậy, tôi vừa trình bày những góc nhìn về hạnh phúc và làm sao để đạt đến hạnh phúc theo quan điểm của Aristotle, phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ. Mỗi trường phái có một góc nhìn, một cách tiếp cận về hạnh phúc khác nhau. Nhưng chung quy lại, với họ hạnh phúc là mục đích cuối cùng con người hướng tới, là nỗi khắc khoải, khao khát tìm kiếm trên hành trình sống của con người. Vậy cách nhau hơn hai ngàn năm, con người ngày nay có khắc khoải, da diết tìm kiếm hạnh phúc như các triết gia cổ đại phương Tây đã bàn không? Và hạnh phúc có còn là cùng đích cuối cùng của đời người như Aristotole đã từng nói?
                    IV.            Hạnh phúc là gì trong cuộc sống vội vã ngày nay?
Trong cuộc sống ngày nay, dường như ai cũng mơ ước có cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần. Do đó, trên bước đường đi tìm giá trị của hạnh phúc, có người đã tìm được câu trả lời và nhưng cũng không ít người tìm mãi mà chẳng thấy, dần đi vào bế tắc, tuyệt vọng như đi vào con đường không tìm thấy lối ra. Rồi cũng không ít người dám đánh đổi, hy sinh nhiều thứ để hi vọng sở đắc hạnh phúc; hay bao người lầm than, mò mẫm để mong được chạm nhẹ đến hạnh phúc. Tuy nhiên, rất nhiều người ngày nay cho rằng chỉ có tiền bạc, danh vọng, quyền lực, thú vui xác thịt mới đem lại hạnh phúc đích thực. Vì thế, với những người cho hưởng thụ là hạnh phúc lại lao vào ăn chơi thâu đêm suốt sáng, cố gắng thử hết những thú vui mới lạ, nhất là thú vui thể xác, tình dục. Hay những người xem tiền bạc, danh vọng, quyền lực là hạnh phúc, họ chỉ biết chăm chăm để kiếm thật nhiều tiền, có một chức vụ thật oai mà bất chấp mọi thủ đoạn để có được nó. Nhưng dừng lại một chút để tự hỏi nếu hạnh phúc đơn giản chỉ là hưởng thụ thật nhiều, kiếm thật nhiều tiền, sống thật giàu có, chức quyền thật cao, ăn thật ngon, mặc thật đẹp vậy những khắc khoải, bàn luận của bao triết gia vĩ đại về hạnh phúc qua nhiều thời kì trở nên công cốc sao? Không, có thể đó là hạnh phúc nhưng chắc chắn nó không phải là cùng đích của đời người, là hạnh phúc đích thực để con người hướng tới.
Ấy thế, tôi hỏi mẹ tôi, với mẹ hạnh phúc là gì? Mẹ trả lời: “Hạnh phúc của mẹ là thấy các con khôn lớn, ngoan ngoan, mạnh khỏe, công việc ổn định và tết nào cũng về với mẹ. Đó là hạnh phúc lớn nhất và điều mà mẹ khắc khoải nhất”. Hạnh phúc thật giản dị. Mẹ chẳng học triết, chẳng biết gì là triết học đạo đức, ấy vậy quan điểm của mẹ về “hạnh phúc” khiến tôi suy tư ngày đêm. Tôi thiết nghĩ hạnh phúc thật gần gũi với mỗi người, nó chỉ tùy thuộc vào cảm nhận của mỗi người mà thôi. Như vậy, hạnh phúc là điều con người luôn khao khát vươn tới để có cuộc sống tốt đẹp nhưng cũng đừng nên mơ mộng hay ảo tưởng về một hạnh phúc toàn mỹ hay xa xôi nào đó mà hãy sống thật với con người mình, biết nâng niu trân trọng những gì mình có, biết mình là ai và cần gì, cứ sống tốt, hành động tốt để có một tâm hồn bình an thư thái, không xáo động. Rõ ràng, nói thật dễ, nhưng khi bị ném ra ngoài xã hội – một xã hội phức tạp, bao cám dỗ, hay chính guồng quay hối hả của cuộc sống, nhiều lúc mình không còn là mình, bình an trong tâm hồn chẳng thấy đâu, cứ mải mê chạy theo dòng đời, rốt cuộc hạnh phúc vô hình lại trở nên xa vời và thành từ khóa được nhiều người tìm kiếm nhất trên google hằng năm.
                       V.            Kết luận
Như vậy, hạnh phúc thật sự là một nỗi khoắc khoải không của riêng ai. Cho dù là một triết gia vĩ đại cách đây hơn 2000 năm hay một người mẹ già sống ở thế kỉ XXI chẳng biết gì về triết học, tất cả đều nhận thấy rằng hạnh phúc chính là cùng đích của đời người. Dẫu rằng mỗi người có một cách hiểu, một góc nhìn khác nhau về hạnh phúc, và có những con đường, phương thế khác nhau để đạt đến hạnh phúc, ấy vậy mục đích cuối cùng của đời người vẫn là hạnh phúc, làm sao có một cuộc sống tốt đẹp, bình an. Nói tóm lại, quan điểm của Aristotle coi đạo đức học là cuộc tìm kiếm hạnh phúc và hạnh phúc là cùng đích hay mục đích của một người và để đạt được hạnh phúc, con người phải hoàn thành mục đích của mình bằng cách hoàn thành các chức năng hoạt động của mình như một con người (hành động đúng theo lý trí). Phái Khoái Lạc cho rằng con người luôn khao khát hạnh phúc và họ cho rằng hạnh phúc là sự sở hữu những thú vui và xa lánh đau khổ. Nhưng những thú vui phải có sự quân bình, không được trói buộc mình trong những đam mê, hay những nhu cầu không cần thiết. Đồng thời phải có một thái độ nhất quyết từ chối với những thú vui không tự nhiên và không cần thiết. Cuối cùng phái Khắc Kỷ cũng cho rằng hạnh phúc là mục đích của đời người và để đạt đến hạnh phúc, cần phải biết phán đoán cho đúng, biết làm chủ chính mình, không để tâm hồn bị xáo trộn và biết dững dưng với những gì không tùy thuộc nơi mình.


Tài liệu tham khảo
  1. AQUINAS, Thomas, Tổng Luận Thần Học về Hạnh Phúc Con Người, Phần I-II, Vấn đề 1-5, NXB TP. HCM, 2003.
  2. FX. HOÀNG, Triết Học Nhập Môn, Lưu hành nội bộ.        
  3. GIÁO, Nguyễn Hồng, OFM, Lịch Sử Triết Học Tây Phương Thời Cổ Đại, Lưu hành nội bộ, 1995.
  4. QUÂN, Đặng Phùng, Triết Học Aristotle, NXB Đêm Trắng, 1927.
  5. STUMPF, Samuel Enoch & ABEL,  Donald C., Nhập Môn Triết Học Phương Tây, NXB Tổng Hợp TP HCM, 2004.
  6. STUMPF, Samuel Enoch, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, NXB Lao Động Hà Nội, 2004.
7.      TĂNG, Nguyễn Mạnh, Lịch Sử Triết Học, 2007.
8.      TED HONDERICH, Hành Trình Cùng Triết Học, NXB Văn hóa Thông tin, 2006.



[1] AQUINAS, Thomas, Tổng Luận Thần Học về Hạnh Phúc Con Người, Phần I-II, Vấn đề 1-5, TP. HCM, 2003, trang 63.
[2] QUÂN, Đặng Phùng, Triết Học Aristotle, NXB Đêm Trắng, trang 112.
[3] QUÂN, Đặng Phùng, Triết Học Aristotle, NXB Đêm Trắng, trang 113.
[4] STUMPF, Samuel Enoch & ABEL,  Donald C., Nhập Môn Triết Học Phương Tây, NXB Lao Động Hà Nội, 2004, trang 286
[5] STUMPF, Samuel Enoch, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, NXB Lao Động Hà Nội, 2004, trang 68.
[6] STUMPF, Samuel Enoch, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, NXB Lao Động Hà Nội, 2004, trang 68.
[7] TED HONDERICH, Hành Trình Cùng Triết Học, NXB Lao Động Hà Nội, 2004, NXB Văn hóa Thông tin, 2006, trang 329.

[8] GIÁO, Nguyễn Hồng, OFM, Lịch Sử Triết Học Tây Phương Thời Cổ Đại, Lưu hành nội bộ, 1995, trang 63.
[9] FX. HOÀNG, Triết Học Nhập Môn, Lưu hành nội bộ, trang 89.
[10] Fx. HOÀNG, Triết Học Nhập Môn, Lưu hành nội bộ, trang 94.
[11] TĂNG, Nguyễn Mạnh, Lịch Sử Triết Học, 2007, trang 63.

Comments

Popular Posts