Giáo Hội Là Dân Thiên Chúa
Giáo Hội Là Dân Thiên
Chúa
Một Khái Niệm Phổ Quát Cho Mọi Dân, Mọi Thời
Dẫn
Nhập
Hiến chế Tín lí về Giáo hội (Lumen
Gentium -LG) của Công đồng Vatican II diễn tả mầu nhiệm Giáo hội qua nhiều hình
ảnh sống động. Cụ thể, Giáo hội là Bí tích trong Đức Kitô (số 1), Giáo hội là
Nước Chúa (số 5), Giáo hội là Thân thể của Đức Kitô (số 7), Giáo hội là Hiền
thê tinh tuyền của Đức Kitô (số 6 -7), Giáo hội là Dân Thiên Chúa (chương II).
Với những nỗ lực của Công đồng, mỗi hình ảnh trên diễn tả những khía cạnh khác
nhau của cùng một thực tại mầu nhiệm là Giáo hội. Nhưng, hầu hết những hình ảnh
ấy đều nhấn mạnh tới chiều kích thần linh của mầu nhiệm Giáo hội ngoại trừ hình
ảnh Giáo hội là Dân Thiên Chúa. Nói cách khác, Giáo hội là Dân Thiên Chúa là khái
niệm trình bày cách chân thực và sống động cả chiều kích nhân sinh cũng như chiều
kích thần linh của thực tại mầu nhiệm Giáo hội.
Tuy nhiên, phải chăng hình ảnh Giáo hội
là Dân Thiên Chúa lần đầu tiên được diễn tả trong chương II của LG? Thực sự,
chúng ta thấy hình ảnh Dân Thiên Chúa được diễn tả nhiều lần trong Cựu ước lẫn
Tân ước. Vậy khái niệm Giáo hội là Dân Thiên Chúa trong Lumen Gentium có tương
quan gì với hình ảnh Dân Thiên Chúa trong Kinh thánh? Phải chăng dân Ítraen được
Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến thành dân riêng của Ngài là hình ảnh báo
trước về Giáo Hội của Đức Kitô sau này? Ngoài ra, Dân Thiên Chúa phải chăng chỉ
là khái niệm dành riêng cho dân Ítraen?
Để trả lời những câu hỏi trên, người viết
sẽ tìm hiểu khái niệm Dân Thiên Chúa trong Cựu ước qua việc tuyển chọn và thiết
lập giao ước của Thiên Chúa với dân Ítraen. Tiếp đến, người viết xem xét khái
niệm Dân Thiên Chúa được hiểu trong Tân Ước và đâu là những đặc điểm và sứ mạng
của Dân Thiên Chúa được nhấn mạnh. Đặc biệt, người viết muốn cho thấy khái niệm
Dân Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở dân Israel nhưng còn áp dụng cho mọi dân, mọi
thời như LG số 9 khẳng định: “Trong mọi thời đại và mọi dân tộc, bất cứ người
nào kính sợ Thiên Chúa và thực hành đức công chính đều được Ngài đoái thương. Tuy
nhiên, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu
liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính
Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện”.
I.
Dân Thiên Chúa Trong Cựu Ước
LG số 9 đã mô tả:
“Cũng như dân Ítraen theo xác thịt, khi đang lữ hành trong sa mạc, đã được gọi
là Giáo hội của Thiên Chúa,[1]
cũng vậy, dân Ítraen mới tiến bước trong thời đại này đang tìm về thành thánh
tương lai bất diệt (x. Dt 13:14) được gọi là Giáo hội Chúa Kitô (x. Mt 16:18)”.
Như vậy, theo Công đồng, hình ảnh Dân Thiên Chúa được sử dụng trong Kinh thánh
Cựu ước để diễn tả Israel được tái sử dụng để diễn tả Giáo hội của Đức Kitô. Vậy,
khái niệm Dân Thiên Chúa được diễn tả như thế nào trong Cựu Ước? Giáo hội là Dân
Thiên Chúa được trình bày ra sao?
1.
Thuật Ngữ “Dân Thiên Chúa”
Trong Cựu ước, có
ít nhất hai thuật ngữ trong thần học Thánh kinh để chỉ về thực tại “Dân” là ’am
(עַ֣ם) và goy (גוי). Trong đó, từ ’am được sử dụng hơn 1800 lần
và hầu như để nói tới dân Ítraen.[2]
Trong khi, từ goy (גוי) (số nhiều là goyim ‘גויים’) diễn tả về các dân tộc
khác hay còn gọi dân ngoại.[3]
Ngoài ra, từ ’am còn nói lên
tương quan với Ítraen với Thiên Chúa, một dân được Thiên Chúa tuyển chọn và trở
thành dân riêng của Ngài (Xh 3:7,10, 6:7). Vì thế, từ ’am được hiểu
trong khái niệm “Dân Thiên Chúa” (People of God - הָאֱלֹהִ֑ים
עַ֣ם).[4]
Như vậy, xét về
nguyên nghĩa, từ ’am diễn tả nhiều ý nghĩa:[5]
Trước tiên, nó chỉ về một nhóm người, một dân tộc trên cùng một lãnh thổ. Tuy
nhiên, không chỉ nói lên tương quan giữa con người với nhau, nhưng từ ’am
còn diễn tả tương quan gắn kết của những người cùng huyết thống với nhau để
cùng xây dựng một thân thể, một nhóm người có sự gắn kết chặt chẽ và có cùng
nguồn gốc. Đặc biệt, trong Kinh thánh, từ ’am diễn tả tương quan gắn bó đặc
biệt giữa Thiên Chúa và dân người chọn – Ítraen như Kinh thánh viết: “Ta sẽ nhận
các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa” (Xh
6:7) hay “Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các ngươi sẽ là dân của Ta”
(Lv 26:12).
Vậy, khái niệm Dân
Thiên Chúa trong Cựu ước đã diễn tả như thế nào? Người viết đi vào tìm hiểu hai
đặc tính: Tuyển chọn và Giáo ước của Dân Thiên Chúa.
2.
Tuyển Chọn và Thiết Lập Giao Ước
Nguồn gốc lịch
sử của dân Ítraen cũng tương tự như mọi dân tộc khác, nhưng cũng rất đặc biệt
vì họ có Thiên Chúa can thiệp trực tiếp vào trong dòng lịch sử và được Người
tuyển chọn như là một dân riêng giữa muôn dân và được thiết lập giao ước. Giữa
bao dân tộc hùng mạnh, Thiên Chúa đã tuyển chọn cách nhưng không một dân du mục
bé nhỏ, phức tạp để làm một dân thuộc quyền sở hữu của Ngài và thiết lập giao ước:
“Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn
mọi dân… Nhưng vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em”
(Đnl 7:7-8).
Thực sự, việc Thiên
Chúa tuyển chọn và thiết lập giao ước có ý nghĩa lớn lao và ảnh hưởng lâu dài đối
với lịch sử dân Ítraen trong tương quan giữa họ với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã
bước vào lịch sử, đi vào trong tương quan hiệp thông với dân Ítraen một cách cá
vị như một người Cha đầy lòng nhân hậu và từ bi, đầy yêu thương hay nén giận,
giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa (Xh 34:6). Chính khoảnh khắc
Thiên Chúa tuyển chọn dân Ítraen là Dân Thiên Chúa ngang qua giao ước tại núi
Sinai (Xh 19:5-6) được xem như một đặc ân của dân Ítraen. Họ không chỉ trở
thành một dân thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa hay một dân được tuyển chọn bởi
chính Thiên Chúa, nhưng họ còn là một dân được thánh hiến[6]
cho Thiên Chúa (Đnl 7:6; Xh 19:5-6).[7]
Ngoài ra, điều quan trọng trong tương quan giữa Ítraen và Thiên Chúa chính là do
Thiên Chúa khởi xướng chứ không phải do dân Ítraen. Nói cách khác, Thiên Chúa
đã đi bước trước để thiết lập tương quan với dân Ítraen như ngôn sứ Isaia đã diễn
tả cách mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với dân Người: “Ta đã gọi ngươi bằng chính tên
ngươi, ngươi là của riêng Ta” (Is 43:1).
Tuy nhiên, theo
Yves Congar,[8] với
đặc ân được chọn làm dân riêng, dân Ítraen cũng mang trên mình sứ mạng cao cả
mà chính Thiên Chúa trao phó.[9]
Cụ thể, họ phải là ánh sáng cho các dân tộc khác (Đnl 4:5-8).[10]
Họ phải cẩn thận thi hành mệnh lệnh và Lề Luật mà ông Môsê đã truyền cho họ: Đó
là yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, đi theo mọi đường lối của Người, giữ
các mệnh lệnh của Người, gắn bó với Người và phụng sự Người hết lòng, hết linh
hồn họ.[11]
Tiếp nữa, họ phải là một vương quốc tư tế,[12]
một dân thánh (Xh 19: 6). Ngoài ra, họ còn có trách nhiệm đem lại cho Thiên
Chúa tiếng tăm, danh dự và vinh quang (Gr 13:11).
Như vậy, việc
dân Ítraen phải trở nên ánh sáng cho muôn dân và làm cho tiếng tăm và vinh
quang của Thiên Chúa được loan truyền,[13]
cho thấy dẫu Thiên Chúa tuyển chọn dân Ítraen làm dân riêng của Người, nhưng ơn
cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho một mình họ nhưng vượt qua biên giới
Ítraen để đến với muôn dân (Is 56:3-8).[14]
Đó cũng là lời Đức Chúa phán với Ápraham: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất
sẽ được chúc phúc" (St 12:3) và
“Ápraham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc sẽ được chúc
phúc nhờ nó” (St 18:18).
Tóm lại, khái
niệm Giáo hội là Dân Thiên Chúa trong Cựu ước được diễn tả trong tương quan tuyển
chọn và thiết lập giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ítraen. Họ là dân riêng, dân
thánh và thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa. Đức Chúa trở thành Thiên Chúa duy
nhất của họ. Tuy nhiên, dẫu là một dân đặc tuyển, nhưng họ có sứ mạng phổ quát.
Nói cách khác ơn cứu độ Thiên Chúa kí thác nơi dân Ítraen phải tỏa lan tới hết
mọi người, mọi dân tộc, qua mọi thời đại chứ không chỉ là một đặc quyền dành
riêng cho Ítraen. Điều này còn được thể hiện một cách rõ ràng hơn qua Tân ước và
khái niệm Giáo hội là Dân Thiên Chúa cũng được trình bày cụ thể hơn với một cộng
đoàn không chỉ là dân Ítraen.
II.
Dân Thiên Chúa Trong Tân Ước
Trước tiên, hình
ảnh Dân Thiên Chúa trong Tân ước được thấy qua việc ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi
người, không phân biệt người Dothái hay dân ngoại, hãy ăn năn, sám hối vì Nước
Trời đã gần đến và đông đảo dân chúng từ Giêrusalem, Giuđê và Giođan, kéo đến với
ông Gioan Tẩy Giả để chịu phép rửa.[15]
Tiếp đến, Chúa
Giêsu đã có một cách diễn tả mới về khái niệm Dân Thiên Chúa: bao gồm cả người
Dothái và dân ngoại.[16]
Theo Ngài, Dân Thiên Chúa được xác định không phải bởi mối quan hệ thể lí, huyết
thống, nhưng Dân Thiên Chúa là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa (Mt
12:48-50). Ngài không phân biệt giữa Dothái và dân ngoại: Ngài nói: “Tôi còn những
chiên khác[17]
không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về” (Ga 10:16).[18]
Ngài đến là kêu gọi cả người Dothái lẫn dân ngoại. Mọi người đều được mời gọi nghe
biết Tin Mừng và được hưởng cuộc sống đời đời.[19]
Đặc biệt, Dân
Thiên Chúa trong Tân ước là do chính Ðức Kitô thiết lập, lấy máu mình mà chuộc
lại và hi sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét:[20]
“Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Ðức Kitô, nhờ máu Ðức
Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần… Người đã liên kết dân Dothái
và dân ngoại thành một. Người đã hi sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn
cách là sự thù ghét… Người đã tiêu diệt sự thù ghét…Vậy anh em không còn phải
là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và
là người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2:13-19).[21]
Như vậy, hình ảnh dân ngoại trong khái niệm Dân Thiên Chúa của Tân ước được xếp
ngang hàng với dân Ítraen, cùng chia sẻ quyền thừa tự và ơn cứu độ của Israel
Dân Chúa vì nhờ Ðức Kitô. Như thế, các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành
cho Ápraham (Gl 3:14; Ep 3:6). Họ giống như cành cây ôliu được tháp thân cây
ôliu chính, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ôliu chính (Rm 11:18).
Vậy, nếu Dân Thiên Chúa trong Cựu Ước chỉ về dân Ítraen thì khái niệm Dân Thiên
Chúa trong Tân ước được mở rộng bao gồm cả dân Dothái lẫn dân ngoại. Tất cả là
những người tin vào Đức Kitô:[22]
“Nhờ đức tin tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Ðức Kitô. Không còn
chuyện phân biệt Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất
cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô” (Gl 3:26-28).
Ngoài ra, nếu trong
Cựu ước, Dân Thiên Chúa gắn liền với hình ảnh Ítraen – một dân riêng, được tuyển
chọn, một dân thánh của Ngài, qua Tân ước Dân Thiên Chúa không chỉ diễn tả thực
tại của những người tin vào Đức Kitô, nhưng Dân Chúa còn được thể hiện một cách
cụ thể hơn, hữu hình hơn ngang qua ý tưởng ekklesia[23]
“Church - Hội thánh” (Mt 16:18; 18:17).[24]
Giáo hội là Dân Thiên Chúa được xem là một cộng đoàn Kitô hữu mà “giống nòi được
tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để
loan truyền những kỳ công của Người” (1Pr 2:9); được Thiên Chúa thương mến và
tuyển chọn (1Tx 1:4); được hưởng ơn cứu độ trong Ðức Kitô, và được hưởng vinh
quang muôn đời (2Tm 2,10).[25]
Ngoài ra, Giáo hội là Dân Thiên Chúa trong Tân ước còn thể hiện qua chiều kích
hiệp thông: Hiệp thông trong cùng chia sẻ một đức tin, một Thân Thể, một Thần
Khí, một sứ điệp Tin Mừng, một phép rửa.[26]
Tóm lại, khái
niệm Giáo hội là Dân Thiên Chúa trong Tân ước không còn là một khái niệm dành
riêng cho dân Ítraen, cũng không phải là một cộng đoàn Dân Chúa hoàn toàn tách
biệt khỏi Ítraen. Tuy nhiên, đây là một cộng đoàn Dân Chúa bao gồm những người
tin vào Đức Kitô, không còn phân biệt Dothái hay Hylạp, nhưng tất cả là con cái
Đức Kitô quy tụ nhau lại để nói lời Chúa và cử hành Bẻ Bánh, đồng thời có chung
một sứ mạng là loan báo Tin Mừng Đức Kitô.
III.
Dân Thiên Chúa Trong Hiến Chế Lumen Gentium
Trong LG, Công
đồng đã dành riêng chương II để trình bày về chủ đề Dân Thiên Chúa với nhiều ý
tưởng. Thứ nhất, Công đồng xem Giáo hội là một dân tộc mới đã được Thiên Chúa
tuyển chọn làm dân riêng của Người, thành hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh,
dân tộc được Thiên Chúa thu phục (LG 9). Thứ hai, Công đồng nhấn mạnh tới những
đặc sủng khác nhau của Dân Thiên Chúa trong Giáo hội (LG 10-12). Thứ ba, Hiến Chế
nói đến đặc tính Công giáo của Dân Thiên Chúa và khả năng thuộc về Giáo hội nơi
những tôn giáo và tín ngưỡng khác trong thế giới. Tất cả đều được mời gọi vào sự
hiệp nhất công giáo của Dân Thiên Chúa (LG 13-17). Cuối cùng, Công đồng đề cập
tới tính phổ quát về sứ mạng truyền giáo của Dân Thiên Chúa. Thiên Chúa đã phả
bỏ ranh giới giữa dân được tuyển chọn Ítraen với dân ngoại và quy tụ mọi người để
tạo thành một Dân Mới mà không loại trừ “di sản trần thế của bất cứ dân tộc
nào”.[27]
Như vậy, Công đồng
đã tiếp nhận và phát triển khái niệm Dân Thiên Chúa – một khái niệm đã có trong
Cựu ước và Tân ước mà chúng ta vừa xem xét ở trên để cho thấy Giáo hội bén rễ
vào cả trong lịch sử cứu độ lẫn trong lịch sử, xã hội loài người. Điều này không
chỉ lên tính liên tục với dân Ítraen, nhưng còn cho thấy sự mới mẻ của Giáo hội
- một Dân Mới của Thiên Chúa (LG 9). Tuy nhiên, dẫu Dân Thiên Chúa mang chiều
kích lịch sử - xã hội, Giáo hội là Dân Thiên Chúa cũng mang chiều kích siêu
nhiên, vì đây là ý tưởng khởi xướng từ Thiên Chúa. Dân Thiên Chúa là một Dân Tộc
được thành hình nhờ Thiên Chúa quy tụ (LG 9), chứ không phải do ý chí thuần túy
của con người. Cách khác, Dân Thiên Chúa không phải là một cộng đoàn sinh ra từ
sự tập hợp những con người có cùng tình cảm tôn giáo và càng không phải là một
sản phẩm của một dân tộc hay một sự nỗ lực thiết lập của một nhóm người.[28]
Như Congar nhận định Giáo hội là Dân Thiên Chúa là một Dân được tuyển chọn, được
thiết lập, được thánh hiến bởi Thiên Chúa để trở thành những chứng tá, những “sứ
giả” loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người trong thế giới.[29]
Tiếp đến, có thể
nói điều làm cho Giáo hội trở thành Dân Thiên Chúa là bởi có Đức Kitô làm Thủ
Lãnh (LG 9). Chính Giáo hội có Đức Kitô là đầu và mọi thành viên là chi thể,
nên mọi kitô hữu trong Giáo hội đều có cùng một phẩm giá và đều nhận được “ân
huệ làm con cái Chúa, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm
hi vọng duy nhất và một đức ái không phân chia” (LG 31). Ngoài ra, bởi “chính
trong Thần Khí duy nhất hoạt động” (LG 9) trong các tín hữu, nên mọi người
trong Dân Thiên Chúa đều có phẩm giá ngang nhau trong Chúa Thánh Thần.[30]
Đồng thời, mọi Kitô hữu cùng có chung một mục đích là xây dựng Thân Thể Mầu Nhiệm
Ðức Kitô và phục vụ lẫn nhau[31]
dù trong Dân Thiên Chúa có những đặc sủng khác nhau (LG 12).
Ngoài ra, Công
đồng còn nhấn mạnh tới khía cạnh Dân Thiên Chúa đang trên đường lữ hành, đang
tiến bước giữa lòng lịch sử loài người với sứ mạng của Ðức Kitô để hướng tới thời
hoàn tất cánh chung (LG 9). Nói cách khác, vì Giáo hội là Dân Thiên Chúa mang
tính lịch sử, nên Giáo hội vẫn đang từng bước hình thành, chưa hoàn tất, chưa đạt
tới đích; đã, đang, và sẽ tiếp tục biến đổi.[32]
Như vậy, vì tự bản chất Giáo hội luôn có sự năng động nơi chính mình, nên Giáo
hội không thể nào bị trói buộc vào một thời đại, một nền văn hóa, một nền triết
hoặc thần học nhưng Giáo hội cũng ra sức giữ cho mình được hoàn toàn tự do trước
mọi thực tại của thế gian đang biến đổi này.[33]
Đồng thời, trên đường lữ hành, Dân Thiên Chúa còn có sứ vụ là “một mầm mống vững
chắc nhất của hiệp nhất, hi vọng và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại” và được
Thiên Chúa “sử dụng như khí cụ cứu rỗi cho mọi người, và được sai đi khắp thế
giới như ánh sáng trần gian và muối đất (Mt 5:13-16)” (LG 9). Như vậy, là Dân Thiên
Chúa, Giáo hội có bổn phận trở nên “một dân cho muôn dân,” nghĩa là dấn thân
cho mọi người được sống như Thiên Chúa muốn và làm cho vương quyền Thiên Chúa đến
được với họ.
Tổng
Kết
Khái niệm Giáo hội là Dân
Thiên Chúa nhấn mạnh đến lịch sử tính của Giáo hội: Giáo hội là một
cộng đoàn được hình thành do sự quy tụ của Thiên Chúa. Đó là một liên tục giữa
Giáo hội với dân Ítraen: được kêu gọi, tuyển chọn, được thiết lập giao ước, và đang
lữ hành tiến về cánh chung. Tiếp đến, Giáo hội là Dân Thiên Chúa không chỉ là một
thực tại hoàn toàn mang tính nhân loại, nhưng trước hết Dân Thiên Chúa là sự khởi
xướng của Thiên Chúa. Ngài đã quy tụ tất cả mọi người lại với nhau trong cùng một
đức tin, một Thần Khí, một Thân Thể, nhất là có Đức Kitô là đầu và có Chúa
Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội. Cuối cùng, Giáo hội là Dân Thiên Chúa có
chung một sứ mạng là loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho mọi người và mọi thời. Dân
Thiên Chúa phải được lan rộng khắp thế giới và đi sâu vào lịch sử nhân loại để
làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua miệng tiên tri: "Từ đông sang tây,
Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật
thanh sạch kính Danh Ta" (Mal 1,11).
Tài
Liệu Tham Khảo
Azike, Gerald. The
People of God in Lumen Gentium. Rome: Gregorian & Biblical Press, 2016.
Beal, Rose M. Mystery
of the Church, People of God. Washington D.C: The Catholic University of
American Press, 2014.
Bonsu,
Robert Osei. The Church as the People of God and Its Relation to the Church
as a Community. University of Africa, Biblical-Theological Studies, 2012. https://africansdahistory.org/wp-content/uploads/2018/03/The-Church-as-the-People-of-God-by-Osei-Bonsu.pdf
Công Đồng Vatican II. Hiến
Chế Tín Lí Về Giáo Hội (Lumen Gentium). Phân Khoa Thần Học Giáo
Hoàng Học Viện Piô X, Đà Lạt – Việt Nam, 1972.
Dulles, Avery
Cardinal. The Sacramental Ecclesiology of "Lumen Gentium".
Vol. 86. Rome: Gregorian & Biblical Press, 2005.
Minh, Hà Văn. Giáo
Hội Như Là Dấu Chỉ Của Bí Tích. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2015.
Nhóm Các Giờ Kinh Phụng
Vụ. Kinh Thánh Cựu Ước Và Tân Ước: Lời Chúa Cho Mọi Người. Hà Nội: NXB
Tôn Giáo, 2006.
O’Collins, Gerald. Rethinking
Fundamental Theology: Toward a New Fundamental Theology. New York: Oxford
University Press, 2011.
Rush, Ormond. The
Eyes of Faith: The Sense of the Faithful and the Church's Reception of
Revelation. Washington D.C: The Catholic University of America Press, 2021.
Sullivan, Francis A.
“The One Church: A Communion of Churches,” The Church We Believe In. New
York: Paulist Press, 1988.
Toàn, Hoàng Đức. Giáo
Hội Học. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2009.
Túy, Phạm Quốc. Dân
ngoại Trong Tân Ước. Báo Công Giáo & Dân Tộc. Phát hành ngày
14/08/2020.http://www.cgvdt.vn/loi-chua-va-cuoc-song/dan-ngoai-trong-tan-uoc_a11506)
Wright, Christopher
J.H. The People of God and the State in the Old Testament.
https://theologicalstudies.org.uk/pdf/state-ot_wright.pdf.
[1] X. Nkm 13:1; Ds 20:4; Ðnl 23:1.
[2] Robert Osei Bonsu, The
Church as the People of God and Its Relation to the Church as a Community,
2012, 59. https://africansdahistory.org/wp-content/uploads/2018/03/The-Church-as-the-People-of-God-by-Osei-Bonsu.pdf
X.
Ds 11:29; 2Sam 1:12; 14:13; Ed 36:20; Tl 5:13…
[3] Gerald Azike, The
People of God in Lumen Gentium (Rome: Gregorian & Biblical Press),
2016, 93-94.
[4] Gerald Azike, The People
of God in Lumen Gentium, 93.
[5] Ibid., 94.
[6] Từ “thánh” có nghĩa là được
tách riêng ra khỏi điều ô uế. Trong tiếng Do thái, từ này bắt nguồn từ chữ “Kadash”
(קָדוֹשׁ) nghĩa là tách biệt (set apart, separated). Vậy, “dân thánh” có nghĩa
là một dân tộc thánh, được biệt riêng ra giữa vòng các dân tộc khác và để dành
riêng cho Thiên Chúa.
[7] Gerald Azike, The
People of God in Lumen Gentium, 94.
[8] Yves Congar (1904-1995) là
một linh mục Dòng Đa Minh, người Pháp. Ngài được coi như một trong các thần học
gia nổi bật của Công Giáo trong thế kỷ 20. Ngài nổi bật với việc nghiên cứu về
bộ môn Giáo Hội học. Ngài vốn là người cổ vũ rất sớm phong trào đại kết. Đồng
thời ngài gây ảnh hưởng lớn đối với Vatican II.
[9] Gerald Azike, The
People of God in Lumen Gentium, 95.
[10] Robert Osei Bonsu, The
Church as the People of God and Its Relation to the Church as a Community,
59.
[11]
X. Đnl 6:1-2; Gs
22:5; 2V 17:13.37…
[12] Trong các tôn giáo, tư tế
là người đến gần Thiên Chúa và là trung gian của Thiên Chúa. Nhưng toàn thể dân
Ítraen được đặc ân này là nhận biết Thiên Chúa và đến gần Người theo một cách
mà các dân khác không có. (NPDCGKPV, Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước: Lời Chúa
Cho Mọi Người (Hà Nội: NXB Tôn Giáo), 2006, 141.)
[13] Dân Ítraen trở nên như một
dân tộc trung gian để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa tới toàn thể nhân loại.
[14] Gerald Azike, The
People of God in Lumen Gentium, 95. Robert Osei Bonsu, The Church as the
People of God and Its Relation to the Church as a Community, 60.
[15] Robert Osei Bonsu, The
Church as the People of God and Its Relation to the Church as a Community,
60.
X. Mt 3:1-12; Mc 1:2-8; Lc 3:1-18; Ga1:6-8.
[16] Ibid. X. Mt 8:10,11; Cv 10: 1,2,34;
13:47; Rom 2:10; Ep 2:12.
[17] Những chiên khác ý muốn
nói tới dân ngoại. Francis A. Sullivan, “The One Church: A Communion of
Churches,” The Church We Believe In (New York: Paulist Press, 1988), 45.
[18] X. Rm 2:9-11; Ep 2:19-20; Cl 3:11.
[19] X. Ga 10:16; Cv 13:47-48; Rm 9:24-26; 1Cr 1:24-25; 2Tm 4:17.
[20] Bức tường ngăn cách là sự
thù ghét đã bị phá vỡ. Người Dothái và người ngoại hòa giải với nhau và với
Thiên Chúa.
[21] Phạm Quốc Túy, Dân ngoại
trong Tân Ước, Báo Công Giáo & Dân Tộc, Phát hành ngày 14/08/2020.
(http://www.cgvdt.vn/loi-chua-va-cuoc-song/dan-ngoai-trong-tan-uoc_a11506)
[22] Robert Osei Bonsu, The
Church as the People of God and Its Relation to the Church as a Community,
61.
[23] “Ekklesia” là một thuật ngữ để diễn tả một
nhóm người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Họ được gọi và quy tụ lại để nghe lời Chúa
và cử hành Bí tích Thánh Thể với nhau. Gerald Azike, The People of
God in Lumen Gentium, 123.
Ngoài ra, danh từ “Ekklesia” khi được chuyển sang tiếng
Việt thì cũng được hiểu dưới nhiều từ: Hội Thánh, Giáo Hội, Giáo Đoàn, nhà thờ.
Ngay từ trong nguyên gốc Hy Lạp Tân Ước, “Ekklesia” đã mang nhiều nghĩa: a) đôi khi nó ám
chỉ một cộng đoàn các Kitô hữu tại một nơi nào đó (một ngôi nhà, một thành phố,
một miền) (1Cor 16:19; Rm 16:5; Cl 4:15) và như vậy có thể dùng ở số nhiều; b)
lúc khác, nó ám chỉ cộng đoàn duy nhất của tất cả mọi người tin theo Chúa Kitô
(Mt 16:18; 18:17; Cv 5:11; 1Cr 12:28). Francis A. Sullivan, Church We
Believe In, 34-35.
[24] Robert Osei Bonsu, The
Church as the People of God and Its Relation to the Church as a Community,
61.
X. Cv 8:3; 9:31; 1Cor 12:28.
[25] Gerald Azike, The
People of God in Lumen Gentium, 125.
[26] Francis A. Sullivan, The
Church We Believe In, 38-43.
X. Ep 4:4-6; 1Cor 10:16-17; Gl 1:6-9; Cv 4:32-37; Rm
15:25-27.
[27] Hà Văn Minh, Giáo Hội
Như Là Dấu Chỉ Của Bí Tích (Hà Nội: NXB Tôn Giáo), 2015, 28.
[28] Hoàng Đức Toàn, Giáo Hội
Học (Hà Nội: NXB Tôn Giáo), 2009, 44.
[29] Gerald Azike, The
People of God in Lumen Gentium, 232.
[30] Hà Văn Minh, Giáo Hội Như
Là Dấu Chỉ Của Bí Tích, 32.
[31] X. 1Cr 14:3.5.12; 2Cr
12:19; Ep 4:12.29.
[32] Hoàng Đức Toàn, Giáo Hội
Học, 46-47.
[33] X. 1Cr 7:31; 1Ga 2:17.
Comments
Post a Comment