Lăng mộ Đức Thượng Công Lê Văn Duyệt

 Lăng mộ Đức Thượng Công Lê Văn Duyệt

Ngày 30/8/1832 tại làng Bình Hòa – Gia Định, mộ Tổng trấn Lê Văn Duyệt đã gối đầu trên một vùng đất cao chạy thoai thoải từ hướng Bắc xuôi về phía Nam đến giáp cầu Bông của quận Bình Thạnh hiện nay.
Thế nhưng, trải qua hơn 184 năm (1832-2016), với những thăng trầm của lịch sử, nơi đó không chỉ là chốn an nghỉ của cuối cùng của Đức Thượng Công, mà còn là nơi để lại những kiệt tác nghệ thuật ẩn mình trong văn hóa Việt sau những đường nét chạm trổ hoa văn và những vật được trang trí xung quanh mộ Đức Thượng Công mà người xưa đã muốn mượn những hình ảnh đó để tỏ lòng tôn kính ngài. Điều đó đã thu hút nhiều quan tâm và sự tò mò của thế hệ con cháu muốn tìm tòi và khám phá những thông điệp ẩn sau đó.
Khu mộ Đức Thượng Công gồm hai phần chính là phần nhà bia và khu mộ của Đức Thượng Công cùng với phu nhân. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu chi tiết những nét nghệ thuật trong khu mộ Đức Thượng Công, đồng thời cùng giải đáp những ý nghĩa về phong thủy cũng như thông điệp của người xưa muốn gởi gắm qua cách xây dựng, bài trí và các biểu tượng trong lăng.

1.1.1Bi đình ( nhà bia)

Cổng vào
Cổng vào phần mộ của Đức Thượng Công có hai câu đối hai bên.Trước cổng đặt 2 con lân trên hai cây cột 2 bên và “Lân” là linh vật thứ hai trong bộ tứ linh. Lân thực chất có tên gọi đầy đủ là kỳ lân trong đó “Kỳ” là con đực còn “Lân” là con cái. Cặp kỳ lân cũng thường được trang trí trong các công trình kiến trúc như đình, chùa, lăng miếu với nhiệm vụ bảo vệ cũng như mang đến những điềm may mắn.Vì thế khi đặt lân ở đây, người xưa muốn mộ của Đức Thượng Công được bảo vệ khỏi những tà khí xung quanh, để ngài có được một nơi an nghỉ yên bình.
Trước đây khi chưa trùng tu lại mộ của Đức Thượng Công thì cánh cửa được làm với theo mẫu chữ Lộc, nhưng sau khi trùng tu, do người làm không hiểu ý đồ nên họ đã bỏ đi chữ Lộc trên cánh cửa sắt trước phần mộ.
Toàn thể khu mộ đều được xây bằng một loại vữa hợp chất, còn được gọi là ô dước.Chất này gồm ba thành phần chính: cát, vôi, chất kết dính. Trong đó, cát là loại cát sông mịn; vôi là vôi sống, vôi tôi, vỏ nghêu sò, san hô nghiền vụn; chất kết dính là nhựa cây ô dước, mật mía, mật ong, nhựa dây tơ hồng hoặc bời lời. Ngoài ra, còn có chất phụ gia như: than hoạt tính, đá ong nghiền vụn, giấy dó.
Nhà bia 
Theo phần tiểu sử, sau khi mất tại Gia Định, Đức Thượng Công được an táng tại Bình Hòa, nơi ngày nay gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Chắc chắn lúc đó người ta đã dựng mộ bia.Năm sau khi Ngài qua đời, xẩy ra vụ khởi loạn Lê Văn Khôi.Vua Minh Mạng ra lệnh cho Tổng đốc Gia Định san bằng mộ phần của Đức Thượng Công và dựng trụ đá hài tội. Như thế, cả mộ, cả bia Đức Thượng Công đã bị phá hủy sau khi Ngài qua đời được 3 năm.
Mãi tới năm Tự Đức thứ 2, vua mới sai quan địa phương bỏ trụ đá hài tội và cho hậu duệ Ngài được sửa sang mộ phần. Không có ai biết hậu duệ Đức Thượng Công có dựng lại bia mộ dịp tu sửa này hay không. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), vua truy phục chức tước cho Ngài và chắc là mộ phần lại được tu sửa và có thể đã dựng bia dịp này vì Ngài đã được phục chức tước.
Nhà để bia nằm phía Nam mộ phần.Mỗi bề 3m80. Trên nóc có trang trí:
·         Hình tượng bình hồ lô
Hồ lô trong phong thủy có tác dụng hút “sát khí” bởi quả hồ lô sẽ có quỹ đạo hút khí theo hình chữ S, quả hồ lô sẽ hút và phá hủy “tà khí”. Vì thế cũng giống hai con lân ở trước cổng, bình hồ lô có tác dụng bảo vệ mộ Đức Thượng Công bởi những tà khí xung quanh.Ngoài ra, hình dáng đặc biệt của Hồ lô tượng trưng sự hợp nhất của Trời và Đất: nửa trên là Trời, nửa dưới là Đất. 
·         Hình tượng đồ án “lưỡng long triều nguyệt”
Hình tượng “lưỡng long chầu nguyệt” thường được dùng để trang trí trên các cung điện, đền đài, miếu mạo và rồng là loài đứng đầu tứ linh đại biểu cho sự linh thiêng, quyền uy và sức mạnh.Lưỡng long chầu nguyệt không chỉ biểu tượng cho sức mạnh thần thánh mà còn ẩn trong đó những giá trị nhân văn, phản chiếu trí tuệ, ước vọng của con người.
·         Mái lợp ngói âm dương. Chung quanh trang trí bằng cách đắp nổi hình hoa lá.
·         Phía trước có nghi dòng chữ
      ( đình  bi  công  lê)
Nghĩa là: Bia kí ghi nhận công lao của Đức Thượng Công
·         Bên trái và bên phải nhà bia có biểu tượng con dơi ngậm tiền. Hình tượng con dơi ngậm tiền là biểu tượng sự may mắn, an lành. Con dơi có âm Hán –   Việt là biên bức trong đó âm bức là phú trùng âm với phúc - phú = "tốt lành". Vì thế người ta đã lấy con vật này để chỉ niềm hạnh phúc sung sướng, cầu mong hạnh phúc đến với mọi người.
·         Hai cây đèn đá theo kiểu Nhật Bản. Đèn đá mới được đặt vào khu mộ sau này để lấp khoảng trống xung quanh bia mộ và tôn thêm vẻ trang nghiêm, trầm mặc cho khu mộ, nhất là khi chiếu sáng vào ban đêm.
Tấm bia 
Mặt trước: trên cùng và chân bia trang trí hình hổ phù.  Trong triết lý vũ trụ Nho giáo, không gian bên trong tự tại của là thế giới thần tiên linh diệu, mặt Hổ Phù chứa đựng bí quyết trường sinh bất lão. Mặt Hổ phù cũng là sự biểu hiện vũ trụ bao la vô bờ bến, là hình ảnh tượng trưng linh thiêng, là sự ám ảnh xua đuổi tà ma, chống lại ám khí, bảo vệ chủ nhân. Biểu tượng này nhằm bảo vệ bia cho Đức Thượng Công khỏi những thế lực tà mà. Bên dưới chân bia có chạm khắc hình hổ phù và “lưỡng long chầu nguyệt”.
Bia làm bằng đá xanh đen, hình chữ nhật, đỉnh tròn bán nguyệt, ngang 0m70, cao 1m60. Đế bia có 4 chân, cao 0m40, ngang 0m88. Bia bằng đá xanh đen, một loại đá ít thấy ở trong vùng Nam Bộ, đá này có chủ yếu ở Ninh Bình hay Thanh Hóa. Vì đá xanh đen có độ bền và không quá cứng nên rất dễ dàng để các thợ thủ công có thể chạm khắc những hoa văn tinh tế.
Mặt sau cũng có hình hổ phù ở trên cùng và chân bia. Ở giữ thì có chạm khắc hình một con lân và chung quanh có mây.
Nội dung Văn bia
Đây là tấm bia do Hoàng Cao Khải, Khâm sai đại thần triều Nguyễn, cung đề. Bản văn bia này không phải là bản chính thức của triều đình. Hơn nữa, nội dung của nó còn sơ lược thiếu sót, để được như một tấm mộ chí. Cả cụ hội trưởng “Thượng công Quý tế hội” Đỗ Văn Rỡ khi xưa cũng không coi tấm bia này là chính thức, nhưng chỉ coi trọng nó bởi nó như là một di chứng lịch sử. Nhưng dù sao, văn bia này là duy nhất để lưu truyền công danh của Tổng trấn và nó cũng có giá trị văn chương và lịch sử nào đó.
Đây là loại văn bia thuộc loại bia mộ bi – bia đặt trước mộ chứ không chôn theo dưới mộ. Văn bia bằng tiếng Hán này được viết theo lối văn xuôi, mà không có đoạn văn vần nào cả.

Văn bia gồm 5 phần:
·         Tên bia: Lê Công Miếu Bi
·         Phần nhập đề: nêu lên nguyên cớ
·         Phần ghi công đức của Tổng trấn
·         Phần niên hiệu, ngày tháng dựng bia,
·         Phần lạc khoản ghi tên họ chức tước của người soạn văn bia, người khắc chữ.
            Bài Lê Công Miếu Bi đã có nhiều người dịch bài này. Trong số đó, theo ông Lý Việt Dũng, phổ biến nhất là bản dịch của ông Đỗ Nhật Tân, người  Sơn Tây, được ông Huỳnh Minh in lại trong quyển “Gia Định Xưa và Nay” xuất bản năm 1973, và bản dịch của ông Trần Vinh trong luận văn cao học tại Đại học Sài Gòn năm 1974, hiện đang được sử dụng trong các cán bộ phụ trách phần trông coi di tích tại Lăng Ông và hội “Thượng Công Quý Tế”. Bản dịch tại bi đình hiện nay do hội Thượng Công Quý Tế tổng hợp. Cả bản phiên âm và dịch nghĩa đều là hai bảng được treo chính thức trong bi đình cùng với bia đá nguyên gốc hán văn. 
Khu vực mộ Đức Thượng Công

Tường vây quanh mộ
Tường vây quanh mộ phần Đức Thượng Công thuộc loại tường đơn. Tường dài 14m50, rộng 12m, cao 1m50, dầy 0m80, màu xám đen ‘rêu phong’.. Bức tường vây phía ngoài (sơn màu vàng) và phần mộ Đức Thượng Công mà chúng ta thấy ngày nay không có liên hệ chính thức với mộ phần vì 2 lí do:
Thứ nhất bức tường bên ngoài đó chỉ được phép xây vào năm 1937, đang khi bức tường vây quanh mộ đã được xây đồng thời với ngôi mộ từ năm 1849 là năm vua Tự Đức cho phép hậu duệ Đức Thượng Công được tu tạo lai mộ phần của Ngài.
Thứ hai là khi Viện Khảo Cổ cho phép xây bức tường phía ngoài với điều kiện là không được xây theo kiến trúc của bức tường chính thức của ngôi mộ để có thể dễ phân biệt.Thêm vào đó, bức tường ngoài này lại hở ra 2 lối đi ăn thông vào sân trước của miếu thờ, chứ không khép kín thành hình vuông như bức tường bên trong.
Mục đích của Hội Thượng Công Qúy Tế khi xin bức tường này là chỉ muốn làm một hàng rào để giữ sự biệt lập và làm tăng phần uy nghiêm cho ngôi mộ. Chính vì những lẽ trên mà ta thấy bức tường ngoài cùng này đuợc xây theo lối mới: trang trí bằng những trụ hình con triện (balustrades) Tây phương, cách quãng trổ lên những trụ đèn hình đèn lồng với những con nghê bằng sành màu xanh ớ các góc
Nữ Tường








Liền tiếp với uynh thành là một bức tương thấp hơn bao lấy bức bình phong gọi là Nữ tường. Nữ tường là bức tường nằm bên ngoài bình phong tiền, xây hình thước thợ, cao 0m80, trang trí bằng những cột trụ hình vuông. Đặc biệt hai bên cửa vào bái đình được trang trí bằng hai con nghê bằng đá tuyệt đẹp. Con nghê đực ở phía tả, con nghê cái ở phía hữu. Dấu hiệu nhận ra con nghê đực là có một con nghê con nhỏ xíu ở dưới bụng nghê cha. Do chấp nhận điều này mà ta có thể biết Mộ Ông bên tả, mộ Bà bên hữu theo lệ ‘nam tả nữ hữu’ (nhìn từ trong ra).
Phía trong có đặt hai búp sen trên Nữ tường trước cổng vào mộ. Sen là loại hoa gắn với Phật giáo, có biểu tượng của sự thuần khiết của tâm hồn. Thế nhưng khi nó được trang trí ở đây thì lại mang ý nghĩa rằng: Đức Thượng Công sinh ra trong một gia đình nghèo (sen mọc lên từ bùn nhơ), nhưng cũng từ đó đã tạo nên một con người tài năng, tài giỏi (vẻ đẹp của sen). Dù những năm tháng sống trong triều chính với nhiều cạm bẫy, nhưng ngài vẫn giữ được sự thanh liêm, thanh cao, trung trực và được mọi người yêu mến
Hai bình phong
Mộ Đức Thượng Công có 2 bình phong: bình phong tiền và bình phong hậu. Theo luật phong thủy thì bức bình phong dùng để bảo vệ lăng khỏi những điều xấu, như gió độc hay cản trở tầm nhìn để đảm bạo sự riêng tư, kín đáo.
Bình phong tiền: Nằm chắn phía ngoài cửa mộ sát bên bái đình, ngang 4m20. Theo ông Trần Văn Sung, Trưởng ban Quý tế Lăng Ông, thì ở mặt trước bình phong tiền chạm hình một con đại bàng đậu trên cành cây trong tư thế đang nghênh chiến khiến con khỉ dưới đất sợ hãi, co rúm - là nói về cái uy của Tổng trấn Lê Văn Duyệt với quân Xiêm.
Ở mặt sau bình phong chạm hình 2 con hổ: hổ phụ và hổ tử. Hổ cha nhảy lên, chân trước chạm vào vách núi nhưng mặt vẫn ngoái lại nhìn hổ con - là nói về tích Tổng trấn Lê Văn Duyệt sắp qua đời vẫn hướng về người con là Lê Văn Khôi.

Bình phong hậu chạm hình “Long vân” (rồng ẩn mình trong mây) biểu tượng của bậc quan tướng nhưng đường nét cũng rất giản lược, thế nhưng cũng rất giống hình hổ phù. Hai bên bình phong hậu có đắp quai, chạm hình “lá hóa long” cách điệu. Ông Trần Văn Sung – một nhà văn hóa - cho biết mô-típ “lá hóa long” còn được các nghệ nhân thời xưa chạm khắc trên các xuyên, kèo (gỗ) trong khung mái đền thờ

Mộ Đức Thượng Công Lê Văn Duyệt

 
Phần mộ gồm hai ngôi mộ song táng: Tổng trấn và vợ là bà Đỗ Thị Phận. Tên ghi theo tài liệu của Ban Quý Tế Lăng Ông. Cũng theo đây, thì bà là một cung nhân nết na, được vua Gia Long đứng ra gả cưới. Nhưng, Vương Hồng Sển- một nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng và ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam - ghi tên bà là Đỗ Thị Phẫn.
Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn hình chữ nhật.Đầu phía Bắc cao hơn đầu phía Nam, nhờ vậy, ta biết đầu quay hướng Bắc, chân ở hướng Nam.







Về hình dáng của mộ, mộ của các vị công thần thường hình chữ nhật, được xây dựng theo kiểu “Nấm Liếp” (mộ Võ Di Nguy)  hay “Trứng Ngỗng” hay dạng ngôi nhà (như kiểu mộ của Vua Gia Long). Riêng mộ Tổng trấn Lê Văn Duyệt lại kết hợp hai kiểu Nấm Liếp và Trứng Ngỗng. Trong văn hóa kiến trúc, sự kết hợp hai hình tượng này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Nó như mô tả quan hệ giữa Trời và Đất ( Nấm liếp thì vuông, trứng ngỗng cắt đôi hình tròn), hay sự kết hợp giữa Âm và Dương, tất cả đều mang một ý niệm cho sự vĩnh cửu. Khi vật biểu hiện là một nấm mồ, thì nó còn mang ý nghĩa về sự liên hệ giữa sự sống và cái chết giữ cõi âm và cõi dương.

Mộ hai cô hầu
Một mộ ở đường Trịnh Hoài Đức, mộ kia ở đường Đinh Tiên Hoàng (trong khuôn viên Trường Cán bộ TP.HCM. Do ngày xưa do việc mở đường, nên con đường Đinh Tiên Hoàng và Trịnh Hoài Đức đã cắt đi một phần đất của phần mộ Đức Thượng Công vì thế ngày nay hai phần mộ đó mới nằm biệt lập với mộ của Đức Thượng Công.Mặc dù có khuyết tật về sinh lý (ái nam ái nữ), nhưng Tổng trấn vẫn cưới vợ rồi chọn thêm hai cô hầu nữa. Theo Sơn Nam - một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng, thì đó là hành động tượng trưng, để chứng tỏ là nam giới. Hơn thế nữa mộ của hai cô hầu rất giống với hình dáng xe thổ mộ.Xe thổ mộ là loại phương tiện đi lại phổ biến ở vùng Sài Gòn - Gia Định của Việt Nam vào những năm 50 của thế kì 19. Chiếc xe thổ mộ đã để lại nhiều kỷ niệm đối với người dân Nam Bộ là cũng là một nét văn hóa đặc trưng của vùng đất này.











Comments

Popular Posts